Danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam
Mục lục nội dung
Đất nước Việt Nam ta từ thời xa xưa đã được biết đến với 54 dân tộc anh em đều có chung dòng máu Lạc Hồng. Từ đồng bằng cho đến miền núi, hải đảo tất cả đều đoàn kết một lòng cùng nhau trải qua bao nhiêu giai đoạn lịch sử hào hùng để gây dựng nên quốc gia Việt Nam lớn mạnh như ngày nay. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ tổng hợp cho bạn về danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam.
1. Dân tộc Kinh
Dân số: 82.085.984 người (85% tổng dân số nước ta).
Dân tộc đầu tiên trong danh sách này là dân tộc Kinh đây là dân tộc phổ biến nhất tại Việt Nam. Người Kinh sử dụng ngôn ngữ chính là Tiếng Việt và có phong tục tập quán là thờ cúng tổ tiên, ông bà những người đi trước.
Nghề trồng lúa nước từ lâu đã được xem như là nghề chính của dân tộc này. Người Kinh cũng có một số các tín ngưỡng tôn giáo rất độc đáo đặc trưng có thể kể đến như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,.. Đặc biệt dân tộc này không hề có giới hạn về tín ngưỡng và tôn giáo, tức không bắt buộc chỉ theo một tôn giáo nhất định.
Cũng tùy thuộc vào nơi sinh sống mà dân tộc kinh cũng sẽ có sự ảnh hưởng nhất định từ các dân tộc khác mà mặc những trang phục riêng biệt chứ không có một trang phục cụ thể. Đặc biệt nhất là áo dài, áo tứ thân, áo bà ba.
2. Dân tộc Tày
Dân số: 1.845.492 người.
Dân tộc Tày được biết đến là dân tộc nhiều thứ 2 tại Việt Nam, dân tộc này sinh sống tại các vùng trung du miền núi của phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thanh Phú)
Ngôn ngữ chính của dân tộc Tày là Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai). Chữ viết của họ sẽ hơi hướng giống với chữ viết của người Việt cổ.
Người dân tộc Tày sẽ thường lập nghiệp bằng các nghề như trồng lúa nước và cây công nghiệp có thể kể đến như chè, hồi, thuốc lá. Người dân tộc Tày có tín ngưỡng là Đa Thần và thờ cúng tổ tiên.
Trang phục truyền thống người dân tộc Tày thoạt nhìn bên ngoài có vẻ khá đơn giản nhưng lại được thêu dệt một cách rất tỉ mỉ, cẩn thận. Thường thì những người dân tộc Tày sẽ điểm trang cho trang phục truyền thống bằng cách đeo thêm một số các loại trang sức bạc như lắc tay, kiềng, xà tích, khuyên tai.
3. Dân tộc Thái
Dân số: 1.820.950 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Thái là khu vực Tây Bắc Việt Nam (các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Nghệ An).
Ngôn ngữ chính của dân tộc này giống với hệ ngôn ngữ của dân tộc Tày
Người dân tộc Thái được chia ra làm hai trường phái là người Thái trắng và Thái đen. Họ chính là một trong số ít những dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng và cơ sở chữ viết của họ có nguồn gốc chủ yếu từ miền Nam của Trung Quốc.
Ngày nay thì người Thái đã xóa bỏ các hủ tục trong hôn nhân. Muốn biết được một cô gái người Thái đã có chồng hay chưa thì thường dựa vào đặc điểm nhận dạng là búi tóc trên đầu vì chỉ có những phụ nữ đã có gia đình mới để búi tóc.
4. Dân tộc Mường
Dân số: 1.452.059 người.
Nơi sinh sống chủ yếu của dân tộc Mường là tại các tỉnh thành thuộc Miền Bắc Việt Nam (đặc biệt là Hòa Bình và một số những huyện miền núi tại Thanh Hoá).
Ngôn ngữ của người Mường là hệ Nam Á (Việt – Mường).
Người dân tộc Mường có nền văn hóa khá tương đồng với người Kinh nhưng trong đó vẫn có một vài nét phong tục riêng của mình. Điển hình như là thờ phụng tổ tiên, bên cạnh đó thì dân tộc Mường còn thờ Đa Thần và có thờ thành hoàng, các vị thần, thờ vua, …
Trang phục truyền thống của người dân tộc Mường rất đa dạng và độc đáo từ áo xẻ ngực thân ngắn, cạp váy dài được dệt hoa, đến các loại trang sức được làm từ chuỗi hạt, bạc và vuốt của các loại mãnh thú,..
5. Dân Tộc Khmer
Dân số: 1.319.652 người.
Ngôn ngữ chính của người Khmer là Môn Khơ Me (1 trong 21 dân tộc).
Nơi ở chủ yếu của dân tộc này nằm rải rác từ miền Trung Tây Nguyên, Tây Bắc cho đến một số tỉnh thành thuộc khu vực Nam Bộ.
Nghề canh tác chính của người Khmer là làm nương rẫy, dân tộc này cũng có sở hữu rất nhiều những nét văn hóa đa dạng và độc đáo.
Hầu hết người dân tộc Khmer sẽ theo đạo Phật mang đậm dấu ấn của Bà La Môn. Tại khu vực Nam Bộ hiện nay đang có gần 600 ngôi chùa lớn nhỏ được xây dựng cách đây vài thế kỷ trước với lối kiến trúc lạ mắt, độc đáo của người Khmer.
Về trang phục truyền thống của dân tộc này là những bộ váy xăm pốt của nữ giới hay xà rông dành cho nam giới.
6. Dân Tộc Hmong (H’mông)
Dân số: 1.393.547 người.
Nơi ở của dân tộc này thường nằm ở các tỉnh vùng cao như Sơn La, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Bái, Nghệ An và Lai Châu.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Hmong là Mèo – Dao (Mông)
Người Hmong lần đầu tiên xuất hiện chính là ở khu vực Mèo Vạc, Đồng Văn, Hà Giang. Đây cũng được xem như là nguồn cội, quê hương của dân tộc Hmong tại Việt Nam. Ngày nay thì họ cũng đã di chuyển ra nhiều tỉnh thành khác nhau ở khu vực phía Bắc nước ta.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên thì giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khác, dân tộc Hmong còn thờ Đa Thần.
7. Dân Tộc Nùng
Dân số: 1.083.298 người.
Người Nùng có nghệ truyền thống là canh tác các các loại lương thực có thể kể đến như là ngô, lúa trên các sườn đồi. Bên cạnh đó thì nghề làm các món đồ thủ công mỹ nghệ của dân tộc Nùng cũng vô cùng đa dạng về đan lát, rèn, dệt, đồ gốm, nghề mộc,..
Đối với người dân tộc Nùng thì dù có là anh chị em ruột hay là họ hàng trong gia đình thì sẽ đều phải dựa vào đúng độ tuổi để có thể xác định được cách xưng hô. Họ thường có thói quen gọi tên của người ông, người ba trong nhà theo tên của đứa con đầu, cháu đầu của họ.
Trong các lễ hội, trang phục truyền thống của dân tộc Nùng là áo 5 thân, quần ống rộng dài nhuộm màu chàm. Tùy thuộc vào từng nhóm người Nùng khác nhau mà họa tiết trang trí trên quần áo và cách mang khăn sẽ có sự khác biệt rất rõ rệt.
8. Dân Tộc Dao
Dân số: 891.151 người.
Người dân tộc Dao có thói quen sinh sống phân bố ở các khu vực miền núi của phía Bắc Việt Nam.
Người Dao có truyền thống canh tác nương rẫy là chính, họ chủ yếu trồng các loại cây lương thực như ngô, lúa, các loại rau như khoai, bầu, bí,.. Nghề trồng bông dệt vải ở một số bản làng của người Dao cũng rất phổ biến. Ngoài ra thì người dân tộc này còn rất giỏi trong ngành nghề như nghề rèn, thợ bạc.
Dân tộc Dao cũng được chia ra thành từng nhóm dân tộc khác nhau như: Dao Lô Gang, Dao Đỏ, Dao Quần Trắng,.. Mỗi nhóm này đều sẽ sống ở một nơi khác nhau và có những phong tục tập quán hoàn toàn riêng biệt.
Dân tộc Dao được biết đến với một hệ thống ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng thơ ca, mỹ thuật cực phong phú và đa dạng. Người Dao có tín ngưỡng Đa thần nguyên thủy.
Người dân tộc Dao có thể dễ dàng được nhận biết thông qua những trang phục áo dài, yếm, váy,.. với một màu tông đỏ làm màu chủ đạo rực rỡ sắc màu và trang phục của dân tộc này đều sẽ được thêu hoa văn một cách cẩn thận và tỉ mỉ.
9. Dân Tộc Hoa
Dân số: 749.466 người.
Người dân tộc Hoa thường có tập tính sinh sống trong các gia đình lớn trong khoảng từ 4 cho đến 5 đời. Cho đến thời điểm hiện tại thì họ đã dần dần tách ra thành những hộ gia đình nhỏ nhưng vẫn rất gần gũi với nhau.
Người dân tộc Hoa cũng có tín ngưỡng thờ phụng rất nhiều những vị thần, Phật và cũng có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên giống với các dân tộc khác tại Việt Nam.
10. Dân Tộc Gia Rai
Dân số: 513.930 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Gia Rai là tại Tây Nguyên.
Biểu tượng văn hóa nổi tiếng nhất của dân tộc Gia Rai chính là những ngôi nhà Rông.
Người nam Gia Rai sẽ thường đóng khố, mặc áo đen hở nách với các đường may ở dọc 2 sườn. Còn người nữ Gia Rai sẽ thường mặc những loại áo cánh bó sát thân, tay áo dài và váy chàm viền hoa văn quanh phần gấu tua chỉ màu ở phần cạp váy rất độc đáo.
11. Dân Tộc Ê Đê
Dân số: 398.671 người.
Nơi ở của dân tộc Ê Đê chủ yếu là tại những vùng cao nguyên như Đak Lak, Đak Nông.
Người Ê Đê thường có thói quen sinh sống theo buôn làng và tuân theo chế độ mẫu hệ. Họ có nghệ chính là canh tác nương rẫy kết hợp với chăn nuôi.
Bên cạnh văn hóa cồng chiêng vốn là nét văn hóa đặc sắc của rất nhiều dân tộc tại vùng Tây Nguyên thì người dân tộc Ê Đê còn có hình thức văn hóa nghệ thuật rất độc đáo khác chính là vừa kể vừa hát (Klei khan).
12. Dân Tộc Ba Na
Dân số: 286.910 người.
Nơi ở của dân tộc Ba Na thường là những nơi gần với núi rừng thiên nhiên.
Ngoài nghề canh tác ruộng nước thì người dân tộc Ba Na còn làm các nghề thủ công truyền thống khác có thể kể đến như đan lát, dệt, gốm, rèn,. Trong đó, dệt thổ cẩm được dệt bằng tay với những họa tiết tinh xảo cùng với đó là nhiều gam màu như đỏ, đen, trắng,..
Nét văn hóa dân gian của dân tộc Ba Na cũng được đánh giá là rất phong phú và đa dạng, từ trường ca, truyện cổ, múa dân gian cho đến nhạc cụ dân tộc độc đáo.
13. Dân Tộc Xơ Đăng
Dân số: 212.277 người.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Xơ Đăng là ngôn ngữ Môn – Khơ me (tiếng Xơ).
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Xơ Đăng là vùng Trường Sơn, Tây Nguyên và khu vực lân cận các tỉnh thành như Quảng Nam, Quảng Ngãi. Họ chủ yếu sinh sống bằng nghề làm nương rẫy trồng lúa và ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,.. Người Xơ Đăng cũng có tín ngưỡng Đa Thần giống với hầu hết các dân tộc khác tại Việt Nam.
Tùy vào từng nơi sống mà phong tục tập quán ở từng vùng của người Xơ Đăng sẽ có nhiều sự khác nhau.
14. Dân Tộc Sán Chay
Dân số: 201.398 người.
Người Sán Chay có thói quen sinh sống tập trung thành các làng nhỏ và sinh sống bằng nghề làm nương rẫy.
Người Sán Chay có danh sách họ khác nhau và với mỗi họ của dân tộc Sán Chay đều sẽ có một thần linh nhất định để họ có thể thờ cúng, tín ngưỡng.
Trang phục của người Sán Chay có nhiều nét tương đồng với những người thuộc dân tộc Tày hoặc giống với dân tộc Kinh.
15. Dân Tộc K’Ho (Cờ Ho)
Dân số: 200.800 người.
Nơi ở của dân tộc Cờ Ho thường là tại các vùng núi cao phía Nam của tỉnh Tây Nguyên.
Dân tộc Cờ Ho có thói quen sống tách biệt với các dân tộc khác nên gần như họ vẫn giữ được nguyên trạng văn hóa riêng biệt của dân tộc mình. Cũng giống với đa số các dân tộc khác tại Việt Nam thì họ cũng có tín ngưỡng Đa thần.
Người Cờ Ho chủ yếu sống bằng nghề canh tác nông nghiệp và lâm thổ sản. Hiện tại người dân tộc Cờ Ho vẫn đang lưu truyền chế độ mẫu hệ.
16. Dân Tộc Sán Dìu
Dân số: 183.004 người.
Dân tộc Sán Dìu có ngôn ngữ riêng rất độc đáo.
Mặc dù đây là dân tộc thiểu số những dân tộc Sán Dìu này có rất nhiều họ khác nhau. Tuy nhiên những người dân tộc Sán Dìu đều yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Người nam giới Sán Dìu sẽ thường có thói quen mặc quần đùi cộc hoặc quần dài tối màu vào những dịp thông thường. Nữ giới sẽ luôn mặc áo trong luôn sáng màu hơn so với lớp áo bên ngoài, áo ngoài có 3 vạt dài quá gối và đeo yếm, đội khăn mỏ quạ.
17. Dân Tộc Chăm
Dân số: 178.948 người.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Chăm là Nam Đào (1 trong 5 dân tộc).
Chữ viết của dân tộc này là Phạn Ả Rập nhưng cũng đã có một số những thay đổi nhất định theo thời gian.
Nơi ở chủ yếu của những người dân tộc Chăm là tại Tây Nguyên và vùng duyên hải miền Trung.
Nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất của người dân tộc Chăm chính là chế độ mẫu hệ. Họ kiếm sống chủ yếu nhờ vào nghề chăn nuôi, làm gốm và dệt. Phong tục tập quán của người dân tộc Chăm thường mang đậm dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các nghi thức cúng thần linh, cưới xin,..
Người Chăm cổ tại Việt Nam đã xây dựng những ngôi đền làm bằng gạch nung mang phong cách kiến trúc từ Ấn Độ vô cùng độc đáo, nghệ thuật và các tác phẩm điêu khắc khác vẫn còn được lưu truyền đến tận ngày nay.
18. Dân Tộc Hrê
Dân số: 149.460 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Hrê là ở vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Ngôn ngữ chính của dân tộc này là nhóm ngôn ngữ của Môn – Khmer.
Nghề truyền thống của dân tộc này là canh tác lúa nước, chăn nuôi. Bên cạnh đó thì những người Hrê cũng biết đan lát, dệt thổ cẩm và rèn rất giỏi. Ngày nay, mặc dù trang phục của nhiều gia đình dân tộc Hrê đã dần dần giống với người Kinh nhưng họ vẫn giữ nguyên phong tục quấn khăn của mình.
19. Dân Tộc Raglai
Dân số: 146.613 người.
Dân tộc Raglai thường tập trung sinh sống tại các tỉnh thành như Ninh Thuận, Khánh Sơn và Khánh Hòa.
Ngôn ngữ chính của dân tộc này là hệ ngôn ngữ chi Malay – Polynesia của hệ Nam Đảo.
Người Raglai thường có thói quen sinh sống tại những gò đất cao, bằng phẳng, vị trí gần với sông ngòi để có thể thuận tiện nhất cho việc sinh hoạt cũng như các hoạt động sản xuất khác của họ. Những người dân tộc Raglai chủ yếu sinh sống bằng nghề canh tác lúa và ngô, khoai, rau củ quả. Bên cạnh đó còn có nghề làm gốm, đan lát, rèn,.. mặc dù vẫn còn khá thô sơ, chỉ đủ để đảm bảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất trong cộng đồng.
Tương tự với một số các dân tộc khác thì người Raglai cũng sống theo chế độ mẫu hệ.
20. Dân Tộc Mnông
Dân số: 127.334 người.
Nơi ở chủ yếu của những người dân tộc Mnông là tại khu vực miền Trung Tây Nguyên.
Dân tộc này chưa có chữ viết riêng, chủ yếu là truyền miệng.
Người Mnông chủ yếu canh tác bằng cách phát quang, đốt nương rẫy và gieo hạt trên các đầm lầy. Ngoài nghề làm đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì người Mnông cũng sinh sống bằng nghề săn bắn – thuần dưỡng voi rừng của người dân tại Buôn Đôn cực kỳ nổi tiếng trên cả nước.
Người Mnông thường sinh sống thành các bon hay uôn gồm những nhà có quan hệ huyết thống với nhau nhiều đời và tuân theo chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên ở một số khu vực khác thì chế độ này đã dần tan rã và biến mất hoàn toàn.
21. Dân Tộc X’Tiêng
Dân số: 100.752 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc này là tại các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và hiện dân tộc X’Tiêng còn sinh sống xen kẽ với nhiều dân tộc ở các tỉnh phía Nam Việt Nam.
Tùy theo nơi sống mà người X’Tiêng mà họ sẽ thường chú trọng làm ruộng nước hoặc làm nương rẫy để có thể canh tác.
Người X’Tiêng có trang phục truyền thống khá đơn giản khi nam giới thường sẽ đóng khố còn nữ giới sẽ mặc váy. Dân tộc này còn có truyền thống rất độc đáo là xăm mình và mặt bằng các hoa văn với đường nét đơn giản.
22. Dân Tộc Bru Vân Kiều
Dân số: 94.598 người.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Bru Vân Kiều chính là ngôn ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn – Khmer.
Nơi ở của họ phần lớn là tại các khu vực miền núi thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số sẽ sang Thái Lan.
Bru Vân Kiều được biết đến như là một trong số các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Họ thường có thói quen xây dựng nhà sàn nhỏ dọc theo con suối hay sống quây quần thành một vòng tròn.
23. Dân Tộc Thổ
Dân số: 91.430 người.
Dân tộc Thổ thường tập trung ở vùng phía tây của tỉnh Nghệ An.
Ngôn ngữ chính dân tộc Thổ là hệ ngôn ngữ chi Việt trong hệ Nam Á. Tùy theo từng nhóm đối tượng khác nhau mà phần ngôn ngữ, ngữ âm sẽ có phần khác biệt rõ rệt.
Người Thổ thường có thói quen kiếm sống bằng nghề làm rẫy trồng nương và trồng cây lá gai. Trước kia họ có nghề dệt vải nhưng sau do ít giao lưu với các dân tộc khác nên nghề truyền thống này đã mai một dần đi.
24. Dân Tộc Khơ Mú
Dân số: 90.612 người.
Nơi ở của dân tộc Khơ Mú chủ yếu tại các tỉnh như Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,..
Người Khơ Mú thường có thói quen sinh sống bằng nghề canh tác nương rẫy trồng lúa, ngô, sắn, khoai,.. là chính. Họ cũng có nghề chăn nuôi nhưng chỉ sẽ thường để dành cho những dịp lễ đặc biệt hay dùng để tiếp khách.
Người Khơ Mú thường sẽ sử dụng họ liên quan đến các loài thú trong rừng, chim hay một loại cây cối nào đó. Mỗi dòng họ của dân tộc Khơ Mú lại mang một truyền thuyết riêng về lai lịch tổ tiên rất đặc sắc và độc đáo.
Mặc dù đời sống vật chất của người dân tộc Khơ Mú khá nghèo nàn và khó khăn nhưng về đời sống tinh thần của dân tộc lại vô cùng phong phú và đa dạng.
25. Dân Tộc Cơ Tu
Dân số: 74.173 người.
Người Cơ Tu thường có thói quen sinh sống bằng việc trồng trọt và hái lượm các loại cây ăn quả. Ngoài ra thì họ còn có một số các nghề truyền thống khác có thể kể đến như dệt, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn, trao đổi hàng hóa theo dạng vật đổi vật.
Cùng với sự phát triển của du lịch tại Việt Nam thì các tục xăm, cưa răng hay đàn ông phải búi tóc ở đằng sau gáy đã dần dần được loại bỏ ở dân tộc Cơ Tu. Một số các ngành nghề buôn bán các sản phẩm địa phương và biểu diễn múa cồng chiêng đã dần dần trở nên nổi bật và phát triển một cách vượt bật trong thời gian gần đây.
26. Dân Tộc Giáy
Dân số dân tộc Giáy: 67.858 người.
Dân tộc Giáy thường sinh sống chủ yếu tại vùng Tây Bắc của Việt Nam.
Người Giáy thường có thói quen sinh sống tại các nhà sàn, tận dụng tối đa được địa hình vùng cao để canh tác các thửa ruộng bậc thang rất độc đáo.
Phong tục tập quán và trang phục của cộng đồng dân tộc Tày – Thái cũng vô cùng đa dạng. Mỗi dân tộc đều sẽ có một phong tục thờ cúng các vị Thần khác nhau.
27. Dân Tộc Giẻ Triêng
Dân số: 63.332 người.
Dân tộc Giẻ Triêng thường có tập trung sinh sống tại khu vực Kon Tum.
Do địa hình khu vực sinh sống rất hiểm trở, khó khăn nên những vật dụng vận chuyển thông dụng của cộng đồng dân tộc Giẻ Triêng là cõng, gùi, vách, xách, kéo,… Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề canh tác trên các nương rẫy. Ngoài ra thì người dân tộc Giẻ Triêng cũng săn bắt, làm đồ thủ công, rèn,.. khá nhiều.
Trang phục truyền thống của dân tộc này cũng được biết đến là rất đa dạng và phong phú. Nam giới thường sẽ đóng khố và mặc một chiếc áo choàng ở bên ngoài. Còn nữ giới thường sẽ mặc váy bông đen với rất nhiều các hoạt tiết có hoa văn màu đỏ và trắng có dạng giống như hình ống.
28. Dân Tộc Tà Ôi
Dân số: 52.356 người.
Nơi ở: Dải Trường Sơn.
Trước kia thì dân tộc Tà Ôi thường sẽ sinh sống chủ yếu nhờ vào nghề săn bắt và hái lượm với rất nhiều những hủ tục cùng với đó là văn hóa lạc hậu, nghèo nàn. Tuy nhiên nghe lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước nên họ đã rời rừng hòa nhập cộng đồng và bắt đầu cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo một cách triệt để
Tùy nơi khác nhau mà người Tà Ôi có dòng họ riêng cũng như các điều kiêng kỵ nhất định. Cho đến nay họ vẫn sống theo chế độ phụ hệ.
29. Dân Tộc Mạ
Dân số: 50.322 người.
Nơi ở: Lâm Đồng, Đồng Nai.
Nghề chính của cộng đồng dân tộc Mạ là canh tác nương rẫy, trồng lúa, bầu, bí, bông, thuốc lá,.. Họ chủ yếu sống bằng nghề chăn nuôi gia súc và gia cầm thành đàn ở trong rừng. Nghề dệt lụa và rèn sắt của người dân tộc Mạ cũng khá là nổi tiếng.
Dù tuân theo chế độ phụ hệ nhưng khi cưới thì chú rể người Mạ sẽ thường phải sang ở rể cho đến khi nộp đủ phần sính lễ cho nhà vợ thì mới có thể được phép đưa cô dâu về bên nhà mình.
30. Dân Tộc Co
Dân số: 40.442 người.
Người dân tộc Co thường sẽ có thói quen kiếm sống chủ yếu nhờ vào làm nương rẫy với trồng trọt các loại cây lương thực như lúa, ngô, sắn và đặc biệt là trồng quế cho ra năng suất rất cao và nguồn thu nhập rất ổn định cho cộng đồng dân tộc Co.
Các bô lão trong cộng đồng người Co thường là những người có tiếng nói rất cao và được mọi người rất kính trọng. Trưởng làng phải người có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết rộng rãi và quan trọng nhất là phải được dân làng rất tin yêu và nể trọng.
31. Dân Tộc Chơ Ro
Dân số: 29.520 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Chơ Ro là tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,..
Nguồn thu nhập chính của người Chơ Ro chủ yếu từ việc canh tác, chăn nuôi, săn bắt, đan lát,..
Tín ngưỡng của dân tộc Chơ Ro vô cùng đa dạng, phong phú như các vị thần tối cao là thần Yang N’du – thần sáng tạo, tiếp theo là vị thần lúa Yang Koi, thần nước Tang Dah và Yang Bri – thần rừng,..
Người Chơ Ro họ luôn cố gắng tôn trọng lẫn nhau và không theo bất kì một chế độ nào.
32. Dân Tộc Xinh Mun
Dân số: 29.503 người.
Nơi ở của người dân tộc Xinh Mun là tại khu vực Lai Châu, Sơn La.
Trồng trọt và săn bắt hái lượm chính là những hoạt động mưu sinh quan trọng trong đời sống của người dân đồng bào Xinh Mun.
Trước kia thì dân tộc Xinh Mun thường chủ yếu du canh du cư, về sau họ đã lập làng ổn định. Đây là một trong số ít những dân tộc vẫn còn giữ vững được nhiều phong tục tập quán của mình như là ăn những loại gia vị cay nồng, nhuộm răng, uống rượu cần và ăn trầu.
33. Dân Tộc Hà Nhì
Dân số: 25.539 người.
Dân tộc Hà Nhì có thường sinh sống tập trung tại khu vực Lào Cai, Lai Châu.
Ngôn ngữ của dân tộc này là tiếng Hà Nhì
Người Hà Nhì thường sống chủ yếu bằng nghề nông. Hiện nay thì người dân tộc Hà Nhì đã có được nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn so với trước đây.
Người Hà Nhì có rất nhiều họ khác nhau, và đặt tên đệm của dân tộc này thường theo tên con vật ứng với ngày sinh, còn tên thì sẽ theo tên của người cha.
34. Dân Tộc Chu Ru
Dân số: 23.242 người.
Nơi ở chủ yếu của dân tộc Chu Ru là ở khu vực Ninh Thuận, Lâm Đồng.
Người dân tộc Chu Ru thường có thói quen sống tại các làng bản và người đứng đầu thường sẽ là một người đàn ông cao tuổi để có thể thực hiện các nghi lễ truyền thống của dân tộc Chu Ru. Cộng đồng của người dân tộc Chu Ru cũng được phân chia ra thành nhiều nhóm dân tộc khác nhau, hầu hết phân chia rõ thành các tầng lớp giàu nghèo khác nhau. Cách phân biệt này sẽ được dựa trên đồ vật mà họ mang trên người. Sở dĩ có sự phân chia này dựa trên việc người dân lao động nhiều ít chứ không có yếu tố bóc lột ở dân tộc Chu Ru.
Người Chu Ru thường có thói quen sống quây quần thành các đại gia đình lớn gồm có 3 đến 4 thế hệ. Mọi thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau làm việc và cùng chung thành phẩm. Ngày nay vẫn còn nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ trong đời sống của người dân tộc Chu Ru.
35. Dân Tộc Lào
Dân số: 17.532 người.
Nơi ở của dân tộc Lào thường sẽ tập trung tại các khu vực Lào Cai, Điện Biên, Sơn La.
Bên cạnh việc kiếm sống bằng các nghề canh tác, làm thủy lợi người dân tộc Lao còn làm một số nghề truyền thống khác như làm gốm, dệt, đồ bạc, rèn,..
Trang phục của dân tộc Lào cũng vô cùng độc đáo khi nam giới mặc áo bông nhuộm chàm giống như áo của những người đàn ông dân tộc Thái. Còn nữ giới sẽ thường mặc váy đen có gấu thêu hoa văn rất sặc sỡ, phần áo trên sẽ bó thân và có hàng khuy bằng bạc
36. Dân Tộc Kháng
Dân số: 16.180 người.
Dân tộc Kháng sẽ thường có thói quen kiếm sống bằng nghề nông, chăn nuôi, đan lát và làm thuyền độc mộc rất giỏi. Nhà sàn chính là một trong số những nét đẹp văn hóa của người dân tộc Kháng.
37. Dân Tộc La Chí
Dân số: 15.126 người.
Nơi ở của dân tộc La Chí thường sẽ nằm tại các khu vực thuộc tỉnh Lào Cai, Hà Giang.
Những người dân tộc La Chí sẽ thường sinh sống ở các khu vực trên với nghề làm ruộng bậc thang và trồng bông, chàm. Người dân tộc La Chí thường có thói quen sống quây quần trong những ngôi nhà sàn với những đường nét kiến trúc vô cùng độc đáo và đặc sắc. Thường sẽ có nhiều thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng nhau sinh sống chung trong một gia đình.
38. Dân Tộc Phú Lá
Dân số: 12.471 người.
Người dân tộc Phá Lá sẽ sống tập trung phần lớn ở Lào Cai, ngoài ra sẽ có một số ít sống tại khu vực Hà Giang, Yên Bái.
Người dân tộc Phù Lá đã phát triển thành công thủ công thành một ngành nghề nổi bật với rất nhiều các sản phẩm đan mây, tre độc đáo mang đậm nét văn hóa của dân tộc mình. Chúng được dùng để đổi lấy nhiều món hàng hóa khác nhau.
Đời sống về mặt vật chất của người dân Phù Lá tuy vẫn còn rất nhiều thiếu thốn nhưng đời sống tinh thần của họ là cực kỳ phong phú và đa dạng.
39. Dân Tộc La Hủ
Dân số: 12.113 người.
Dân tộc La Hủ thường sẽ sinh sống phần lớn ở các tỉnh như Lai Châu, Thái Nguyên.
Ngôn ngữ chính của nhóm dân tộc này là nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến của hệ Hán – Tạng.
Trước kia thì người dân tộc La Hủ sẽ thường sinh sống chủ yếu vào nghề làm nương rẫy, hái lượm và săn bắt. Tuy nhiên trong những năm gần đây thì người dân tộc La Hủ đã dần biết canh tác lúa nước và sử dụng trâu cày.
40. Dân Tộc La Ha
Dân số: 10.157 người.
Nơi ở của người dân tộc La Ha là tại tỉnh Sơn La
Họ thường sẽ sinh sống chủ yếu bằng việc làm nương rẫy, hái lượm. Ngày nay thì người La Ha đã biết cách để cải thiện được đời sống bằng việc trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc.
41. Dân Tộc Pà Thẻn
Dân số: 8.248 người.
Người Pà Thẻn sẽ thường chủ yếu sinh sống bằng nghề canh tác lúa nước, làm nương rẫy và trồng chè Shan tuyết. Những người dân tộc Pà Thẻn cũng thường sẽ được chia ra làm nhiều họ khác nhau và người dân tộc này có quy định rất khắt khe về việc kết hôn khi mà hai người có cùng họ sẽ không được lấy nhau.
42. Dân Tộc Chứt
Dân số: 7.513 người.
Nơi ở của dân tộc Chứt chủ yếu tập trung tại các tỉnh như Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Chứt có cùng hệ với tiếng Việt nguyên thủy.
Trước đây thì người dân tộc Chứt thường khá nhút nhát và họ chủ yếu sinh sống theo lối du canh du cư, ngủ ở trong các hang động hoặc trong các lều tự tạo. Hiện nay thì người dân tộc Chứt đã biết cách định canh định cư biết trồng trọt cũng như chăn nuôi gia súc, đan lát.
Người Chứt có tín ngưỡng Thần Nông. Khi diễn ra các hoạt động nông nghiệp quan trọng như xuống giống, gieo hạt,.. họ đều sẽ tổ chức các buổi lễ long trọng để cúng bái thần linh.
43. Dân Tộc Lự
Dân số: 6.757 người.
Người dân tộc Lự đã có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Họ cày bừa, dẫn nước vào mương, gieo mạ, cấy lúa và trồng các loại cây lương thực như ngô, khoai, sắn, chàm, bông. Khi đi đến mỗi gia đình của người dân tộc Lư ta đều có thể dễ dàng bắt gặp có vài ba khung cửi ở đó.
Người Lự có tín ngưỡng Phật giáo Nam tông. Lễ hội Songkran tôn thờ các vị Phật chính là lễ hội lớn nhất diễn ra vào tháng 6 dương lịch hàng năm của người dân tộc Lự
44. Dân Tộc Lô Lô
Dân số: 4.827 người.
Nơi ở chủ yếu của người dân tộc Lô Lô chính là tại khu vực Cao Bằng và Hà Giang.
Những nét văn hóa có từ lâu đời cùng với đó là các giá trị truyền thống vẫn luôn được người dân tộc Lô Lô gìn giữ theo năm tháng. Người Lô Lô thường sẽ có thói quen cư trú ở trong những ngôi nhà lưng dựa vào vách núi hướng về phía thung lũng và cánh đồng.
45. Dân Tộc Mảng
Dân số: 4.650 người.
Nơi ở của người dân tộc Mảng thường là tại vực Nậm Nhùn, Lai Châu.
Người dân tộc Mảng có tín ngưỡng vị thần tối cao là trời và người dân tộc này thường sẽ rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh.
46. Dân Tộc Cờ Lao
Dân số: 4.003 người.
Ngôn ngữ chính của người dân tộc Cờ Lao là tiếng Quan Thoại, đôi khi họ cũng sẽ nói tiếng Bố Y hay H’Mông.
Nơi sinh sống của dân tộc Cờ Lao thường sẽ những vách đá cao nên họ sẽ chủ yếu là làm thổ canh là chính với cây ngô sẽ là loại cây lương thực chính của dân tộc này. Với những vùng núi đất thì dân tộc Cờ Lao sẽ canh tác làm ruộng bậc thang, đan lát, làm đồ gỗ.
Người Cờ Lao thường sẽ có niềm tin rất mãnh liệt rằng mỗi người, mỗi cây mỗi cỏ, mỗi vật đều có linh hồn .Thần Đất chính là vị thần quan trọng được hầu hết toàn bản dân tộc Cờ Lao thờ cúng.
47. Dân Tộc Bố Y
Dân số: 3.232 người.
Nơi ở của dân tộc Bố Y là tại khu vực Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái và Tuyên Quang.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Bố Y là chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Người Bố Y có nghề truyền thống là làm nương rẫy, chăn nuôi và họ cũng có rất nhiều kinh nghiệm trong nghề nuôi cá.
Vì khu vực sống của dân tộc Bố Y là các vùng núi cao nên thường có lượng mưa và độ ẩm khá lớn nên nhà ở của họ bắt buộc phải làm từ thân cây tre, gỗ. Các nhà ở của họ thường sẽ nằm quây quần quanh sườn đồi hay bờ suối, thung lũng có nền đất cao.
48. Dân Tộc Cống
Dân số: 2.729 người.
Nơi ở chủ yếu của người đồng bào Cống là khu vực Điện Biên và Lai Châu.
Họ có nghề truyền thống là làm nương rẫy, hầu hết thức ăn của người dân tộc Cống đều từ rừng và bắt cá bằng tay. Tuy người Cống không biết dệt vải nhưng họ sẽ thường trồng bông để đem đổi lấy vải hay quần áo. Những người phụ nữ dân tộc Cống cũng biệt tài đan lát rất giỏi
49. Dân Tộc Ngái
Dân số: 1.649 người.
Nơi ở chủ yếu của người dân tộc Ngái là khu vực Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,..
Ngôn ngữ chính của dân tộc Ngái là hệ Hán – Tạng.
Phụ thuộc vào từng sinh sống khác nhau mà người dân tộc Ngái sẽ có thể trồng lúa, đánh bắt cá, làm đồ thủ công,..
50. Dân Tộc Si La
Dân số: 909 người.
Nơi ở của dân tộc Si La là tại khu vực Lai Châu.
Ngôn ngữ chính của dân tộc Si La là Tạng-Miến.
Người Si La thường có thói quen kiếm sống bằng nghề truyền thống là trồng lúa và ngô. Mặc dù dân tộc Si La có khá nhiều dòng họ khác nhau nhưng lại quan hệ rất khăng khít với nhau.
51. Dân Tộc Pu Péo
Dân số: 903 người.
Dân tộc Pu Péo thường tập trung sinh sống tại khu vực Cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang.
Người dân tộc thường sẽ kiếm sống tại các khu vực trên với nghề trồng các loại cây lương thực như trồng ngô, mạch ba góc, đậu,.. Lương thực chính của người dân tộc Pu Péo là bột ngô đồ chín.
Tương tự như những dân tộc khác sinh sống tại khu vực miền núi phía Bắc của nước ta thì người dân tộc Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ đa Thần. Nhiều thần linh được thờ cúng trong cộng đồng người Pu Péo như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,..
52. Dân Tộc Rơ Măm
Dân số: 639 người
Nơi ở chủ yếu của người dân tộc Rơ Măm là khu vực Kon Tum.
Nghề chính của người dân tộc Rơ Măm là nghề trồng lúa nếp và làm rẫy. Tầm 10 đến 20 người thuộc nhiều thế hệ khác nhau sẽ cùng nhau sinh sống trong một nhà.
53. Dân Tộc Brâu
Dân số: 525 người.
Ngôn ngữ chính của người dân tộc này là hệ tộc Môn – Khmer.
Người Brâu quen lối du canh du cư, đốt rừng làm rẫy để tiến hành trồng trọt. Tuy nhiên do kỹ thuật canh tác còn non kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên năng suất làm việc của dân tộc này vẫn chưa được cao.
Lễ cúng nhà sẽ thường được người dân tộc Brâu coi như là một dịp lễ quan trọng trong phong tục tập quán của dân tộc, vào dịp lễ này thì chủ nhà thường sẽ mở tiệc và mời cả làng đến để cùng chung vui, ăn mừng.
54. Dân Tộc Ơ Đu
Dân số: 428 người.
Nơi ở của người dân tộc Ơ Đu là tại khu vực Tương Dương, Nghệ An.
Ngôn ngữ chính của người dân tộc Ơ Đu là chi Khơ Mí của ngữ tộc Môn – Khmer.
Người dân tộc Ơ Đu này thường sẽ kiếm sống bằng nghề chính là canh tác nương rẫy, săn bắt và hái lượm. Việc chăn nuôi gia súc gia cầm của người dân tộc Ơ Đu thường sẽ chủ yếu dùng cho việc cúng bái thần linh và đãi khách.
Dân tộc Ơ Đu là dân tộc có số lượng người ít nhất trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Người dân tộc Ơ Đu có nền văn hóa chịu ảnh hưởng rất nhiều từ dân tộc Thái hoặc Khơ Mú.
Bài viết trên đây chúng tôi đã tổng hợp cho bạn về danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam. Chúc bạn một ngày tốt lành!